Bạn đang xem bài viết Ý nghĩa truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy được Vinabooks.vn tổng hợp sưu tầm từ trang Reader.com.vn các bạn hãy truy cập trang để mua sách ủng hộ đội ngũ có thêm kinh phí ra những bài viết hay hơn nhé.
An Dương Vương, là một vị vua vô cùng tài giỏi, trong buổi đầu dựng nước đã đánh tan các cuộc xâm lăng hung bạo của kẻ thù tàn ác nhưng cuối cùng lại thất bại mội cách đau xót, trong giây phút chủ quan đã để cho giang sơn xã tắc tuột khỏi tầm tay. Truyền thuyết về câu chuyện này của An Dương Vương đã để lại bài học kinh nghiệm xương máu vô cùng đắt giá khó có thể nào quên.
Nội dung truyền thuyết An Dương Vương và Mị Châu Trọng Thủy
An Dương Vương tên thật là Thục Phán – vua của đất nước Âu Lạc lúc bấy giờ, sau khi xây xong thành Cổ Loa và được thần Kim Quy tặng cho một chiếc móng để làm nỏ thần. Nỏ thần giúp vua đánh bại kẻ thù phương Bắc xâm lược. Triệu Đà bị thất bại liền lui quần về chờ cơ hội thích hợp.
Ít lâu sau, Triệu Đà đưa con trai mình là Trọng Thủy sang cầu thân với Mị Châu – con gái An Dương Vương. Một thời gian qua đi, khi đã có được lòng tin yêu của Mị Châu, Trọng Thủy bèn dò hỏi chuyện về chiếc nỏ thần và đánh cắp đem về cho cha. Có nỏ thần trong tay, Triệu Đà đem quân sang đánh Âu Lạc. An Dương Vương thấy giặc đến chân thành nhưng vẫn chủ quan vì nghĩ rằng đã có nỏ thần.
Thua cuộc, An Dương Vương cưỡi ngựa đem theo Mị Châu tiến về phía biển. Nhưng đi đến đâu thì thấy quân giặc theo đến đấy. Vua cầu cứu thần Kim Quy, thần hiện lên báo rằng: “Giặc ở sau lưng nhà vua đấy”. An Dương Vương ngoái lại thì nhìn thấy lông ngỗng mà Mị Châu rắc trên đường đi, liền rút gươm chém Mị Châu, rồi nhảy xuống biển. Trọng Thủy tìm theo vết lông ngỗng thì thấy xác Mị Châu, lo liệu tang sự cho Mị Châu tươm tất, chàng hối hận mà nhảy xuống giếng tự tử. Ngày nay, giếng ấy được gọi là giếng Trọng Thủy. Tục truyền lại Mị Châu khi chết, máu chảy xuống biển, trai ăn được mới có ngọc châu. Đem ngọc về rửa nước giếng thì thấy ngọc tỏa sáng lạ kì.
Ý nghĩa truyền thuyết An Dương Vương và Mị Châu Trọng Thủy
Gắn với di tích còn để lại cho đến ngày nay và sự kiện lịch sử xây dựng thành Cổ Loa, có thể thấy đây chưa hẳn là một câu chuyện cổ do trí tưởng tượng phong phú của con người dệt thành. Giá trị lịch sử của câu chuyện thể hiện ở việc An Dương Vương là người xây thành Cổ Loa.
Việc xây thành Cổ Loa vô cùng gian nan. Do Kê Tinh quấy phá, thành xây đến đâu sập đổ đến đó, tiêu tốn không biết bao nhiêu công sức của nhân dân. Chính An Dương Vương là người hóa giải được tai họa đó. Nhờ có rừa thần mách bảo, Kê Tinh bị tiêu diệt, thành được xây xong. Rùa thần lại còn ban cho nỏ thần bách phát bách trúng. Nhờ có nỏ thần, An Dương Vương đã chiến thắng quân Triệu Đà, giữ vững giang sơn. Có thể khẳng định, dưới sự lãnh đạo của An Dương Vương, Âu Lạc vô cùng vững mạnh, khiến cho kẻ thù khiếp sợ.
Việc xây thành Cổ Loa của An Dương Vương có sự giúp đỡ của thần linh là một sáng tạo của trí tưởng tượng phong phú của nhân dân. Do yêu tinh quấy phá mà thành xây mãi vẫn chưa xong. Nhà vua lập đàn khấn vái bách thần, trai giới cầu an. Nhờ cụ già mách bảo lại thêm sứ Thanh Giang giúp sức. Chỉ trong nửa tháng, thành đã xây xong.
Bài học giữ nước đắt giá: chủ quan, mất cảnh giác là nguyên nhân dẫn đến ‘cơ đồ đắm biển sâu’
Việc xây thành nhanh chóng chỉ có thần linh mới làm được. Thần linh giúp An Dương Vương bởi vì đã có ý thức đề cao cảnh giác khi giặc chưa đến mà lo phòng bị. Điều đó khẳng định hành động của An Dương Vương là chính nghĩa hợp ý trời và được lòng dân. Đồng thời nở thần là sự kì ảo hóa bí mật vũ khí tinh xảo của người Việt xưa. Hình ảnh thần linh và sức mạnh thần kì chính là ước mơ của nhân dân về một sức mạnh tương trợ để giữ nước trong buổi đầu sơ khai của lịch sử.
Việc An Dương Vương xây dựng thành Cổ Loa thành công phản ánh sự gian nan vất vả của công việc bảo vệ và xây dựng đất nước, ca ngợi công lao to lớn của An Dương Vương, tự hào về chiến công xây thành, chế nỏ, chiến tháng ngoại xâm của dân tộc. Chi tiết ấu cũng khẳng định sức mạnh của chính nghĩa, tinh thần đoàn kết, đề cao tinh thần cảnh giác, phòng chống giặc ngoại xâm.
Tiếp sau công cuộc xây thành là công cuộc giữ nước trước sự xâm lược của kẻ thù. Do mắc phải nhiều sai lầm nên An Dương Vương không mãi đứng trên đỉnh vinh quang của chiến thắng mà đã gặp phải những thất bại cay đắng. Nỏ thần rất linh nghiệm, song bao giờ cũng vậy, thắng lợi mà dựa vào vũ khí, con người sinh ra chủ quan. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến mất cảnh giác, dẫn đến hậu quả khôn lường.
Triệu Đà là kẻ tham lam và đầy mưu mô nhìn thấy đất nước Âu Lạc trù phú, hắn muốn cướp lấy. Lần thứ nhất xuất quân vội vã, Triệu Đà chuốc lấy thất bại nặng nề nhưng vẫn không từ bỏ âm mưu xâm lược. Hắn sai con là Trọng Thủy sang cầu hòa và ngỏ ý muốn kết duyên cùng Mị Châu, con gái An Dương Vương. Không lường hết được âm mưu thâm hiểm của kẻ thù, An Dương Vương đã gả Mị Châu cho Trọng Thủy. Sau cuộc hôn nhân, Trọng Thủy với vị trí là phò mã được đi lại tự do và thực hiện mưu đồ tìm hiểu về vũ khí bí mật quốc gia.
Cậy có nỏ thần, khi Triệu Đà kéo quân sang trước cổng thàng, An Dương Vương còn chủ quan khinh địch: “Đà không sợ nỏ thần sao?”. Nói rồi vẫn ung dung ngồi đánh cờ. Hành động điềm nhiên chơi cờ và cười “Đà không sợ nỏ thần sao?” cho thấy An Dương Vương quá tự tin, tự đắc, dựa dẫm hết vào sức mạnh của vũ khí thần kì. Sự chủ quan và mất cảnh giác đó là nguyên nhân dẫn đến nước mất, nhà tan. Cho đến khi quân giặc đã áp cổng thành, An Dương Vương vẫn điềm tĩnh. Có ngờ đâu, nỏ thần đã không còn, thành bị phá trong tích tắt, An Dương Vương phải vội lên ngựa chạy thoát thân.
An Dương Vương chỉ thực sự thức tỉnh khi nghe tiếng thét của Rùa Vàng. Sự thức tỉnh của An Dương Vương tuy muôn màng nhưng rất cần thiết để cứu vãn tình thế.
Đề cao ý thức dân tộc
Thức tỉnh, An Dương Vương đã tự tay chém đầu con gái. Đó là hành động quyết liệt, dứt khoát đứng về phía công lí và quyền lợi của dân tộc, cũng là sự thức tỉnh muộn màng của nhà vua. Chi tiết mang tính bi kịch sâu sắc. Sau cùng, An Dương Vương cầm sừng tê bảy tấc rồi theo gót Rùa vàng xuống biển. Nhân dân đã huyền thoại hoá, bất tử hoá người anh hùng, mong muốn người anh hùng bất tử để tiếp tục giữ gìn ý chí đấu tranh lấy lại đất nước của nhân dân.
Motip huyền thoại hóa, bất tử nhân vật anh hùng thể hiện chiều sâu triết lí của nhân dân. Nếu Thánh Gióng sau khi chiến thắng giặc Ân, đã một mình phi ngựa lên núi Sóc, cởi áo giáp sắt để lại rồi từ từ bay về trời. Ý nghĩa câu chuyện chỉ khi ngẩng mặt lên cao vời mới nhìn thấy rõ hết được công đức của bạc thánh quân. Đó là một kết thúc rực rỡ, hoành tráng vì nhân vật không mắc phải sai lầm hay thất bại nào. Còn ở An Dương Vương lại khác. Ông cầm sừng tê, cùng Rùa Vàng rẽ nước đi xuống thủy cung. Ông là sai lầm và thất bại, là nỗi nhực nhã của quốc gia nếu chỉ nhìn đơn giản. Phải cúi đầu nhìn xuống thăm thẳm sâu mới có thể thấy hết tấm lòng của nhà vua đối với nhân dân, đối với với đất nước. Nhà vua đã tận tuyệt tình riêng để giương công lí.
Mối tình ‘sai người sai thời điểm’ và bài học về lòng tin
Bên cạnh nhân vật An Dương Vương, mối tình Mị Châu và Trọng Thủy cũng chứa đựng nhiều uẩn khúc khó giải bày. Cuộc hôn nhân giữa Mị Châu và Trọng Thủy mang tính chính trị sâu sắc. Nhân vật Mị Châu vừa đáng thương, lại vừa vừa đáng trách. Đáng thương là bởi nàng chỉ là một vật lợi dụng của cha con Triệu Đà. Ở mặt này, nàng hoàn toàn vô tội. Mị Châu lén đưa cho Trọng Thủy xem nỏ thần chỉ thuận theo tình cảm vợ chồng mà bỏ quên nghĩa vụ với đất nước. Vì: ‘Nỏ thần’ thuộc về tài sản quốc gia, là bí mật quân sự.
Vì thế, Mị Châu lén đưa cho Trọng Thủy xem trộm nỏ thần là việc vi phạm nguyên tắc của bề tôi đối với nhà vua và đất nước, biến nàng thành giặc, đáng bị trừng phạt. Khi cùng cha chạy trốn lại còn rắc lông ngỗng chỉ đường cho Trọng Thủy, chỉ đường cho giặc đuổi theo truy sát. Nàng bị Rùa Vàng kết tội là giặc, là kẻ phản quốc. Sau đó còn bị chính cha của mình giết chết. Trong các nhân vật, Mị Châu là người phải gánh chịu nhiều oan khuất nhất.
Tình yêu, tình cảm vợ chồng (trái tim) không thể đặt lầm chỗ lên trên lí trí, nghĩa vụ với đất nước (đầu). Mất nước dẫn đến nhà tan nên không thể đặt lợi ích cá nhân lên lợi ích cộng đồng. Nàng đã gián tiếp tiếp tay cho kẻ thù nên bị trừng phạt nghiêm khắc.
Kẻ gây ra bi kịch thảm khốc đối với Mị Châu không ai khác chính là Trọng Thủy, phu quân của nàng. Trọng Thủy đến với Mị Châu với một âm mưu chính trị thâm hiểm, đê tiện: lợi dụng mối tình để tìm hiểu và chiếm đoạt bí mật quốc gia. Hắn lừa Mị Châu cho xem nỏ thần rồi lén lút đánh tráo nỏ thần mang về nước. Chính trọng Thủy cũng là kẻ cầm quân tấn công nước Âu Lạc và đuổi theo cha con An Dương Vương. Trọng Thủy tuy hoàn thành nghĩa vụ với quốc gia nhưng bỏ quên tình cảm vợ chồng.
Qua câu chuyện, ta thấy rõ, Mị Châu là người con gái nhẹ dạ, cả tin, yêu chồng sâu sắc, đặt tình cảm cá nhân lên trên vận mệnh với đất nước. Nàng vừa đáng giận vừa đáng thương. Trọng Thủy vừa là kẻ thù, vừa là nạn nhân của của chiến tranh xâm lược phi nghĩa. Hành động của Trọng Thủy cũng chỉ là sự nghe lời vua cha mà đánh mất đi hạnh phúc của chính mình mà thôi. Chỉ có Trọng thủy mới minh oan được cho Mị Châu.
Nhân vật Trọng Thuỷ là nhân vật có nhiều tính cách phức tạp. Vì nghe lời cha, đặt nhiệm vụ lợi ích quốc gia lên trên nên trở thành kẻ vô tình bạc nghĩa, đã phụ tình yêu chân thành ngây thơ của Mị Châu. Khi biết tội lỗi của mình thì rất hối hận. Hình ảnh của Mị Châu ám ảnh con người bội bạc ấy đã dẫn đến cái chết thảm thương cho nhân vật. Trọng Thủy đã nhảy xuống giếng tự tử.
Kết cục của kẻ ác
Trọng Thủy hắn bạc tình phụ nghĩa, hành vi bất chính, hèn hạ. Thế nên phải nhận lấy một kết cục đau đớn. Trọng Thủy mất vợ, mất tình yêu, phải sống trong day dứt, ăn năn, mất trí, Trọng Thủy lao đầu xuống giếng tự tử để đền tội. Không những thế, hắn còn bị lên án là kẻ gián điệp, phản bội.
Tấm lòng của nhân dân
Chi tiết nhà vua tự tay chém chết con gái yêu quí nhất của mình là hành động vì nghĩa diệt thân, đặt lợi ích quốc gia lên trên tình nhà. Qua đó, nhân dân gửi gắm tấm lòng kính trọng đối với thái độ dũng cảm của vị vua, hành động quyết liệt, dứt khoát đứng về phía công lí và quyền lợi của dân tộc, cũng là sự thức tỉnh muộn màng của nhà vua, sự phê phán thái độ mất cảnh giác của Mị Châu. Hình ảnh Rùa Vàng là lời giải thích lí do mất nước nhằm xoa dịu nỗi đau mất của nhân dân ta. Chi tiết cũng thể hiện tấm lòng vị tha cao cả của nhân dân đối với những lỗi lầm của lịch sử.
Nhân dân trong khi “phê phán Mị Châu bằng bản án tử hình” vì những lỗi lầm gây tổn hại cho đất nước một cách đích đáng. Nhân dân lại cũng thấu hiểu rằng Mị Châu mắc tội không do chủ ý mà chỉ do vô tình, ngây thơ, nhẹ dạ. Bởi thế họ đã cho lời khấn của nàng linh ứng. Họ cũng đã có một cái nhìn bao dung, độ lượng đối với Trọng Thủy.Với Trọng Thủy, nước giếng thể hiện nỗi ân hận vô hạn và chứng nhận muốn giải tội của hắn ta.
“Ngọc trai – giếng nước” cặp hình ảnh mang ý nghĩa sâu sắc
Hình ảnh “ngọc trai – giếng nước” là một sánh tạo đọc đáo của nhân dân. Hình ảnh ngọc trai phù hợp với lời ước nguyện của Mị Châu. Ngọc trai chứng minh cho tấm lòng trong sáng của nàng. Hình ảnh ngọc trai – giếng nước chính là sự hóa giải oan tình của Mị Châu. Chi tiết ngọc trai đem rửa nước giếng lại càng sáng đẹp hơn cho thấy Trọng Thuỷ đã tìm được sự hoá giải của Mị Châu ở thế giới bên kia. Với hình ảnh “ngọc trai – giếng nước” này, nhân dân ta đã có sự phán xét thấu lí đạt tình, vừa nghiêm khắc vừa nhân ái đối với con người lầm lỗi. Nhân dân với tấm lòng bao dung, vị tha luôn rộng lòng tha thứ cho những người vô tình phạm tội như Mị Châu hay những kẻ biết ăn năn hối hận như Trọng Thuỷ.
Câu chuyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy để lại nhiều bài học lịch sử sâu sắc. Nó nhắc nhở về trách nhiệm của người lãnh đạo, người đứng đầu quốc gia phải có ý thức cảnh giác đối với kẻ thù, có tầm nhìn xa rộng, quyết sách đúng đắn đối với vận mệnh của dân tộc. Trong quan hệ tình cảm, phải có cách giải quyết mối quan hệ riêng – chung đúng mực, có sự phân biệt rạch ròi giữa tình nhà và nợ nước.
Nguồn: https://www.reader.com.vn/y-nghia-truyen-an-duong-vuong-va-mi-chau-trong-thuy-a694.html